Top Google Việt Nam : Tôn Hoa Sen, Tôn Việt Nhật , Tôn Việt Hàn, Tôn Vitek, Tôn Sóng Ngói, Khung Nhà Xưởng Cũ, Diệt Mối, Diệt Chuột, Diệt Gián, Diệt Muỗi, Diệt Kiến, Làm Biển Quảng Cáo, Mua Bán Ô Tô Cũ, Phong Thủy, Gitizen.info, Blog Thủ Thuật SEO, Quà Tặng Lưu Niệm

Thứ Bảy, 1 tháng 2, 2014

Không tưởng tỉnh ngủ, không tưởng mộng mơ

Nguyễn Văn Trọng Khi nhìn vào các đạo truyền thống, nhiều người thường hay để ý đến nội dung siêu hình học huyền bí cũng như hoạt động xã hội của các giáo hội trong lịch sử. Thông thường người ta giảng giải rằng hiện tượng tôn giáo xuất hiện từ xa xưa trong các xã hội loài người là do tâm trạng hoang mang của con người vào thời buổi hoang sơ. Trước những sức mạnh của tự nhiên đầy đe dọa, con người đã tưởng tượng ra Thượng đế và các dốt nát và đặt lòng tin vào sự bảo hộ của họ, giống như đứa trẻ tin vào người cha bảo vệ cho con cái của mình. A. Comte (1798-1857) cho rằng đạo là thời kỳ thư từ của nhân loại. Đối chọi với thời kỳ thư từ ấy là thời đại khoa học đánh dấu sự trưởng thành của nhân loại. Thế nhưng tôn giáo bao gồm nhiều phương diện sinh hoạt văn hóa tinh thần của con người, chứ không phải chỉ hệ trọng đến nỗi sợ hãi trước sức mạnh của thiên nhiên. Chú trọng tới định hướng đạo đức của con người, Erich Fromm (1900-1980) đã quan niệm đạo như là một hệ thống tư tưởng và hoạt động được san sớt bởi một nhóm người, đem lại cho mỗi cá nhân chủ nghĩa thành viên một cơ cấu định hướng và một đích để hiến. Fromm quan niệm “tôn giáo” không chỉ là các tôn giáo có Thượng đế và thánh thần, mà bao gồm cả những định hướng thuần túy phàm tục nữa. Trong ý nghĩa như vậy có thể nói rằng không có nền văn hóa nào trong quá khứ và ngày nay mà lại không có tôn giáo. Cả hai đạo, Kitô giáo và Phật giáo đều đòi hỏi quý trọng nhân phẩm của con người cá nhân trong tư cách là con người, không phụ thuộc vào địa vị xã hội hay của nả của người đó. Cả hai đạo đều nói đến một thế giới ý thức, độc lập với cõi cõi trần; con người trong thế giới tinh thần được hiệu triệu hướng tới điều thiện, cự lại các cám dỗ dục vọng thấp hèn để hoàn thiện bản thân. Cả hai đạo đều nói đến tình thương yêu hay lòng từ bi đối với thế giới xung quanh và trước tiên là đối với đồng loại của mình. Trong xã hội Việt Nam hiện thời sự tôn trọng nhân phẩm con người vẫn còn là một ước mong hơn là một hiện thực tầng lớp. Vấn đề không thuần tuý mang tính chính trị, mà cốt là tâm thế văn hóa của phần đông quần chúng. # Còn chưa sẵn sàng xem việc trọng người khác là mệnh lệnh của lương tâm. Vì giá trị phổ quát mà mọi người đeo đuổi là lùng tiền tài và danh phận như một chỗ đứng dưới ánh quạ, nên khát vọng vượt lên trên người khác ắt phải lấn át tình thương xót và lẽ công bằng. Nhiều người còn xem thuyết cạnh tranh sinh tồn áp dụng vào đời sống tầng lớp như chân lý phổ quát. Kinh tế thị trường được hiểu như cuộc cạnh tranh ác liệt, do vậy người ta thích ví von: thương trường là chiến trận. Điều này trình diễn.# Rõ rệt trong hiện thực muôn vẻ của đời sống từng lớp cũng như trong nhiều sinh hoạt tinh thần ở nước ta giờ. Đạo đức không được tiếp thụ như chân lý nhân bản phổ biến, mà thường gắn với lòng giáp của phe nhóm từng lớp theo kiểu bầy đàn. Trong mối quan hệ tầng lớp giữa con người với nhau đầy rẫy những biểu lộ phân biệt đối xử, kỳ thị lẫn nhau theo đủ loại tiêu chí bề ngoài của lối sống đánh giá con người qua những gì sở hữu và cướp đoạt được. Con người bị hạ thấp xuống thành hữu thể theo đuổi độc nhất những mục đích cõi tục và hoàn toàn bị quy định bởi tình cảnh tầng lớp. Ảnh hưởng của Phật giáo (mà nhiều người xem là tôn giáo truyền thống) trong sinh hoạt ý thức của người Việt hiện đại chừng như chẳng còn được bao nhiêu. Ở nước ta từ lâu rồi Phật giáo đã bị hiểu sai. Nhà nghiên cứu Phan Kế Bính (1875-1921) trong tác phẩm Việt Nam phong tục (1915) đã lưu ý sự kiện Phật giáo bị các nhà Nho bài kể từ thời Hậu Lê. Ông viết: “...Phật giáo cũng là một món đạo giáo, người tầm thường vị tất đã hiểu thấu lý cao sâu của nhà Phật, thì cũng chớ nên bài bác khinh bỉ mà thành ra một người vô hạnh. Hiện hiện nay ở nước ta Phật giáo cũng đã suy. Tuy lưu truyền đã lâu, làng nào cũng có chùa thờ Phật, dân gian vẫn còn cúng bái sùng phụng, nhưng chẳng qua là bọn ngu phu, ngu phụ theo thói quen mà cúng vái chớ kỳ thật thì không mấy người là mộ đạo”(*). Bản thân cách đặt vấn đề của tôn giáo, xem con người song song thuộc về hai thế giới: thế giới tự nhiên và thế giới tinh thần, có nhẽ cũng chưa được những người có học thức ưng ý rộng rãi. Cách hiểu theo chủ nghĩa duy vật thô thiển ẩn ý chỉ có thế giới thiên nhiên khả dĩ khảo sát được bằng các phương pháp khoa học là hiện thực độc nhất vô nhị mà thôi; cách hiểu này hình như vẫn đang chiếm ưu thế. Cách đây mấy năm có dư luận ồn ào xung quanh khả năng chữa bệnh kỳ lạ ở một khu vườn. Tôi có đọc được trên báo chí khẳng định của các quan chức địa phương là họ đã đo các loại bức xạ vật lý trong khu vườn, nhưng không thấy có gì hết; từ đó họ kết luận khu vườn không có khả năng chữa bệnh nào cả. Khẳng định như vậy ắt phải ngầm ẩn dựa trên tiền đề cho rằng không có thế giới nào khác ngoài thế giới thiên nhiên, các bức xạ vật lý là độc nhất vô nhị khả hữu trong các thực thể không nhìn thấy bằng mắt thường. Tôi không khẳng định niềm tin như thế (thế giới tự nhiên độc nhất vô nhị khả hữu) là sai trái. Tôi chỉ khẳng định rằng một niềm tin khác (con người thuộc về hai thế giới) cũng có quyền ngang bằng và chẳng có luận cứ duy lý nào có thể bác nó về mặt logic. Niềm tin khác nhau dẫn đến sinh hoạt ý thức khác nhau, cũng giống như các tiên đề hình học khác nhau về đường thẳng đồng thời dẫn đến các hình học khác nhau. Những người theo các đạo truyền thống đều dấn một thế giới tinh thần độc lập với thế giới nhân gian. Thế giới ý thức trong các tôn giáo lớn luôn hàm nghĩa khả năng siêu hạng hóa của con người hướng tới cái siêu việt thiêng liêng cao cả: Thiện tính với biểu trưng Thượng đế nhân bản (Kitô giáo), hay cảnh giới của đánh tháo viên mãn với biểu tượng Niết bàn (Phật giáo). Định hướng ý thức như thế đòi hỏi nạm của con người phản kháng lại tình trạng nô lệ cho những dục vọng và cám dỗ thấp hèn gắn liền với cuộc sống thông thường ở cõi trần gian, để nhằm đạt tới trạng thái Tự do, đồng thời vun đắp những xúc cảm tích cực như lòng thương xót hay lòng từ bi đối với đồng loại, cũng như thái độ trọng nhân phẩm con người. Những điều không hay gắn với chủ nghĩa vô thần không phải là ở bản thân niềm tin khẳng định Thượng đế không hiện hữu. Những tai hại của chủ nghĩa vô thần sinh ra từ những hàm ý đi theo sau khẳng định ấy: một số người muốn làm Thượng đế chính vì tin rằng không có Thượng đế “thực” (Thượng đế chỉ là một ý tưởng của con người), nên họ muốn “thế thiên hành đạo” để xây dựng thiên đường trong cõi thiên hạ; vì họ là Thượng đế nên họ có thể tự cho phép mình dùng con người như phương tiện nhằm phục vụ cho mục đích mà họ cho là cao đẹp; một số khác lại cho rằng không có Thượng đế “thực” thì mọi hành động đều được phép làm, họ gây nên những tội ác kinh động lòng người mà không ghê tay. Bây chừ chẳng thể nói về tình trạng vô tín ngưỡng trong xã hội Việt Nam đương đại: mở ti vi ra là thấy các lễ hội thờ phụng khói hương ngun ngút, các đoàn người mặc lễ phục khăn đóng áo dài màu sắc oắt con; sách nói về thế giới linh tính với các phép lạ được bày bán khắp nơi; vô kể các ngôi chùa hoành tráng được xây nên... Tuy nhiên, thế giới linh tính của người Việt làng nhàng hoàn toàn khác hẳn với thế giới tinh thần của các tôn giáo lớn như Kitô giáo hay Phật giáo. Không như các tín đồ Kitô giáo bước vào nhà thờ với lòng thành kính hướng tới Thượng đế cao cả để sám hối về những sa đọa của mình và mong được cứu chuộc; không như các tín đồ Phật giáo ngồi thiền để dẹp đi những tạp niệm và dục vọng, hướng tới đánh tháo viên mãn; những người Việt nhàng nhàng đi tới các miếu mạo đền chùa với tiền bạc và lễ phẩm giống như đi đến nhà các quan chức để lo chạy chọt. Điều thú là những mục đích mà họ lo chạy chọt ở cả hai thế giới, đều cùng là một thứ: ấy là những khao khát tư dục của con người. Khi những giáo đồ chân chính của các tôn giáo lớn hướng tới biểu trưng của sự cao cả, họ tạo cho mình niềm hứng khởi để thực hành những trách nhiệm đạo đức nhân văn như những “mệnh lệnh nhất quyết” trong ý nghĩa của I. Kant (1724-1804), được thanh lọc khỏi mọi thèm muốn tư dục. Còn những người ở trong tình trạng nô lệ kép (nô lệ ở cả hai thế giới) cho các tư dục của mình thì làm sao mà vun đắp được những phẩm tính đạo đức nhân bản như lòng thương yêu đồng loại hay tôn trọng nhân phẩm của tha nhân. Định hướng ý thức của cộng đồng người Việt hiện giờ đang có nhiều dấu hiệu khủng hoảng biểu thị ra trong rất nhiều phương diện của đời sống. Suy đồi đạo đức của người Việt không còn là những hiện tượng lẻ tẻ để có thể tự lừa dối bằng những ngôn từ sáo mòn “đó chỉ là một thiểu số cá biệt chứ không phải của số đông quần chúng. #”. Để vượt qua cuộc khủng hoảng ý thức này cần nhận thức được vai trò cực kỳ quan yếu của giới tinh hoa văn hóa trong tác động định hướng ý thức cho quần chúng. Trong kí vãng chúng ta đã bị xúc động bởi tình trạng bất đồng đẳng của từng lớp cũ với một thiểu số bọn bóc lột thống trị xã hội, nhưng trong khi chống lại “thiểu số bóc lột”, chừng như chúng ta đã ghép luôn thiểu số tinh hoa văn hóa vào chung một phe với các chủ ngân hàng và chủ nhà máy, trong khi phá hủy trật tự bất đồng đẳng xã hội về chính trị và kinh tế chúng ta lại phá hủy luôn cả trật tự thứ bực ý thức trong văn hóa vốn là thứ mà Triết gia Nga Fedotov (1886-1951) xem như quý giá và mang tính vĩnh hằng. Do tôn thờ sức bạo dạn lực của đám đông, chúng ta đã khinh các danh nhân bản hóa đỉnh cao như những người yếu đuối, không có sức mạnh. Có vẻ như chúng ta đã không biết rằng: phẩm tính cao luôn ở trong thiểu số tinh hoa không có sức mạnh phá hủy, còn đám đông có sức mạnh hủy diệt lại không có phẩm tính cao của văn hóa ý thức. Triết gia Đức N. Hartmann (1882-1950) cho rằng: trình độ hiện hữu tỷ lệ nghịch với sức mạnh của nó; cái cao cả là thượng tầng phái sinh ở trên cái thấp kém, nhưng bao giờ cũng yếu ớt hơn cái kém cỏi. Triết gia Nga Berdyaev (1874-1948) cũng nói rằng trong cuộc sống thông thường thì cảnh sát và cai đội, chủ ngân hàng và con buôn mạnh hơn là thi sĩ và triết nhân, hơn là nhà tiên tri và thánh nhân. Ông khẳng định: “Khi nguyên lý sức mạnh được tuyên bố và sức mạnh được đặt cao hơn sự thật và cao hơn giá trị, thì điều này có nghĩa là sự cáo chung và cái chết của văn minh”. Sự phục sinh của giới tinh hoa văn hóa đòi hỏi trước hết phải tái lập được thứ bậc ý thức của các giá trị và rồi sau đó mới là việc giáo dục từng lớp và tổ chức ứng với nó. Triết gia Nga Fedotov cho rằng cần phải có khoảng cách giữa thầy và trò, giữa nhà văn và độc giả, giữa nhà tư tưởng và người phổ cập hóa. Nếu không như thế thì sẽ chẳng có gì để dạy cả. Cường độ của chuyển động hướng lên cao của văn hóa tỷ lệ thuận với khoảng cách giữa hai cực của nó - với điều kiện không mất đi mối ràng buộc giữa chúng: cường độ dòng điện cũng tỷ lệ thuận với độ chênh thế hiệu giống như thế. Lẽ tất nhiên khoảng cách giữa hai cực phải được lấp đầy bởi những người hoạt động trung gian; cấu trúc thế giới văn hóa có ngôi thứ, có thứ bực. Vai trò của thiểu số tinh hoa văn hóa là cực kỳ quan yếu trong việc chỉ dẫn định hướng ý thức cho các thành viên trong từng lớp. Ông phê phán chủ nghĩa dân túy Nga đã hủy diệt giới tinh hoa văn hóa, biến nền văn hóa Nga thành một đống hoang tàn, khiến cho trạng thái tinh thần của đám đông quần chúng. # Đắm chìm trong vô minh, dù cho đời sống vật chất của họ có được cải thiện đi nữa. Ông cho rằng trong tình trạng như thế việc bình phục giới tinh hoa văn hóa sẽ là nhiệm vụ thúc bách hàng đầu. Giới trí thức phải gìn giữ tự do tinh thần của mình trước mọi mưu đồ, dù nó đến từ đâu; hội đoàn là cần thiết để bảo vệ phẩm giá từng lớp của giới trí thức chứ không phải để bảo vệ quyền lợi vật chất của họ. Phải phục hồi những quan hệ ngôi thứ cần phải có giữa người thầy hay nghệ nhân và người học sinh. Việc học tập bắt đầu từ sự lún, đằng sau sự nhún mình là lao động khổ hạnh. Kẻ nào không muốn đi theo phương pháp của Socrates - và nói lên tự đáy lòng mình: “Tôi không biết gì cả”, thì không được để cho bước vào thánh đường đang xây dựng. Văn hóa phải được hiểu một cách tôn giáo, nếu không nó sẽ bị giẫm đạp bởi chiếc ủng nặng nề của kẻ mị dân. Sự phục sinh của giới tinh hoa văn hóa đòi hỏi đầu tiên phải tái lập được ngôi thứ ý thức của các giá trị và rồi sau đó mới là việc giáo dục từng lớp và tổ chức tương ứng với nó. Đó là những gì Fedotov đã khẳng định từ năm 1939. Từ đó đến nay nước Nga đã qua sao biến cố trọng đại và chủ nghĩa dân túy dường như đã đi vào quá khứ. Ấy thế mà về bình diện văn hóa có vẻ như vẫn chẳng có biến chuyển gì hăng hái theo hướng Fedotov mong chờ. Nếu nước Nga còn như vậy thì liệu chúng ta có thể hy vọng gì ở nền văn hóa Việt Nam tương lai? Tôi không có ý hoàn toàn vô vọng về ngày mai, nhưng như Fromm đã nói, “những người còn nuôi hy vọng chỉ có thể thành công, nếu là những người hiện thực có đầu óc rất tỉnh táo, dẹp bỏ mọi ảo mộng và đánh giá đầy đủ những khó khăn. Thái độ trầm tĩnh ấy là chỉ dấu phân biệt sự khác nhau giữa “những người không tưởng” tỉnh táo và “những người không tưởng” mộng mơ”. (*) Phan Kế Bính, Việt Nam phong tục, NXB Hồng Đức, tr. 225.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét