Top Google Việt Nam : Tôn Hoa Sen, Tôn Việt Nhật , Tôn Việt Hàn, Tôn Vitek, Tôn Sóng Ngói, Khung Nhà Xưởng Cũ, Diệt Mối, Diệt Chuột, Diệt Gián, Diệt Muỗi, Diệt Kiến, Làm Biển Quảng Cáo, Mua Bán Ô Tô Cũ, Phong Thủy, Gitizen.info, Blog Thủ Thuật SEO, Quà Tặng Lưu Niệm

Thứ Năm, 17 tháng 7, 2014

Xây dựng hệ thống quản trị rủi ro hoạt động tại các nhà băng thương nghiệp Việt Nam

Các nhà băng đã nhận thức được tầm quan yếu của hệ thống quản trị rủi ro cũng như mối liên can giữa quản trị rủi ro và lợi nhuận. Nguồn: internet

Xây dựng hệ thống quản trị rủi ro theo chuẩn mực quốc tế

Xu thế hội nhập quốc tế đòi hỏi các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam phải đáp ứng các yêu cầu quản trị nói chung và quản trị rủi ro (QTRR) nói riêng theo chuẩn mực quốc tế, song song mở ra các dịp để ngành ngân hàng có thể tiếp cận nhanh và gần hơn với các chuẩn mực đó.

Hiện, bên cạnh cố giải quyết các khoản nợ xấu từ hoạt động cho vay trong kí vãng, các NHTM Việt Nam đã bắt đầu chuẩn bị các bước dài hơi hơn bằng cách xây dựng hệ thống quản lý rủi ro (QLRR) tiên tiến, nhằm phòng ngừa rủi ro trong mai sau, thay vì phải giải quyết “sự đã rồi”.

QTRR vẫn là một chức năng khá mới mẻ đối với các NHTM Việt Nam trong bối cảnh các ngân hàng đang chật vật xây dựng “khẩu vị” rủi ro, khả năng chịu đựng và các giới hạn rủi ro, cũng như làm thế nào để nâng cao quy trình, kiểm soát và quản lý các nguồn lực. Giải quyết các vấn đề rủi ro trong ngân hàng không chỉ đơn giản là hoài thực hành kinh doanh mà còn là con đường để hiểu rõ hơn hoạt động kinh dinh của ngân hàng. Hơn thế nữa, sự phối hợp giữa giám sát của nhà băng Nhà nước (NHNN) và sự sẵn sàng chủ động của các ngân hàng sẽ giúp xây dựng hệ thống nhà băng Việt Nam vững mạnh.

Trước tình hình đó, Hiệp ước Basel là một thước đo chung để QLRR tại các NHTM Việt Nam. Một ngân hàng tuân Hiệp ước Basel II đồng nghĩa với việc có một hệ thống QLRR tiên tiến, đương đại. Hiệp ước Basel II không chỉ là tuân thủ, tiếp thụ thực hiện Hiệp ước Basel chính là thực hiện chuẩn tối thiểu đánh giá rủi ro nhà băng phải đối mặt và để bảo đảm đủ vốn, tăng hiệu quả hoạt động nói chung.

Hiệp ước Basel II đưa ra các chỉ dẫn, phương pháp tính hạnh, còn dữ liệu, đặc thù về con người, “khẩu vị” rủi ro của ngân hàng và danh mục tài sản mà các nhà băng đang nắm giữ lại rất khác nhau. Cơ quan quản lý sẽ đưa ra các quy định, chỉ dẫn về khai triển Hiệp ước Basel II cho các nhà băng, song song, phê duyệt ngân hàng nào sẽ được coi là tuân Basel II. Các nhà băng đang dần nhận ra các ích thương nghiệp/kinh dinh khi thực hiện Basel cũng như các cơ hội kiệm ước vốn tiềm năng.

Trong thời kì qua, các NHTM Việt Nam đã quan hoài quản trị các loại rủi ro như rủi ro thanh khoản, rủi ro tín dụng, rủi ro lãi suất, rủi ro hoạt động. Kết quả “Khảo sát về ngành nhà băng Việt Nam 2013” của KPMG (Công ty cung cấp các dịch vụ kiểm toán, thuế và tham vấn): 80% ngân hàng đã nắm bắt được việc NHNN lập mưu hoạch thực hiện khung giám sát theo Hiệp ước Basel II. NHNN đã tài trợ các khóa đào tạo giới thiệu ý nghĩa của Basel II cho các ngân hàng nhưng chưa đưa ra hướng dẫn về việc khi nào các quy định mới được ban hành; Các ngân hàng cũng chưa sẵn sàng để cam kết thực hành lịch trình khai triển hay đưa ra một quyết định quan yếu gây tốn kém.

Tuy nhiên, 57% đối tượng dự khảo sát cho rằng, vấn đề QTRR hoạt động là đáng quan ngại nhất. Nhiều ngân hàng đang triển khai QLRR hoạt động ở những công việc ban đầu như: nghiên cứu thiết lập quy trình, xây dựng các văn bản về QTRR hoạt động, theo dõi các rủi ro và cảnh báo…Về cơ sở tính hạnh vốn cho rủi ro hoạt động thì 64% các nhà băng sẽ dùng phương pháp tiêu chuẩn để tính vốn trong khi 14% ngân hàng lại dùng phương pháp chỉ số căn bản và 21% vẫn chưa quyết định. Tất tật các ngân hàng đều chỉ ra rằng còn rất nhiều khó khăn khi triển khai vận dụng Hiệp ước Basel II. Hai khó khăn chung được nhắc đến nhiều nhất chính là hoài khai triển Hiệp ước Basel II (85%) và thiếu dữ liệu lịch sử (78%).

Nguyên ở đây tắc quản trị rủi ro hoạt động

Theo tài liệu Thỏa ước quốc tế về đo lường vốn và chuẩn mực vốn, tháng 11/2005 của Ủy ban Basel: Rủi ro hoạt động là rủi ro tổn thất nảy sinh do các quy trình nội bộ không đầy đủ hoặc không hoạt động tốt, do con người và hệ thống hoặc do các sự kiện bên ngoài.

Những nguyên tắc cốt yếu can hệ đến rủi ro hoạt động trong các tài liệu này bao gồm:

Nguyên tắc 1: Do hoạt động QTRR hoạt động vẫn đang phát triển và môi trường kinh doanh thường xuyên biến động nên ban lãnh đạo nhà băng cần đảm bảo rằng các chính sách, quy trình và hệ thống của phạm vi này đều phải đầy đủ và có hiệu lực. Khả năng tăng cường công tác QTRR hoạt động sẽ phụ thuộc rất nhiều vào việc những vấn đề quan ngại do cán bộ QTRR hoạt động đưa ra được cân nhắc đến mức độ nào cũng như việc lãnh đạo cấp cao có sẵn sàng hành động nhanh chóng và hiệp đối với những dấu hiệu cảnh báo đưa ra hay không.

Nguyên tắc 2: Các ngân hàng cần xây dựng, khai triển và duy trì một khuôn khổ tích hợp toàn diện vào các quy trình QTRR nói chung của toàn nhà băng

Nguyên tắc 4: Hội đồng quản trị phải phê chuẩn và kiểm tra lại “khẩu vị” cũng như khả năng chịu rủi ro hoạt động gắn với bản tính, loại hình và mức độ rủi ro hoạt động mà nhà băng sẵn sàng ưng.

Nguyên tắc 10: Các ngân hàng cần có kế hoạch hồi phục và vận hành liên tục để đảm bảo khả năng hoạt động thường nhật và giảm thiểu tổn thất trong trường hợp gặp tan vỡ nghiêm trọng hoạt động kinh doanh.

Mặc dù có nhiều nỗ lực, song cho tới nay Việt Nam vẫn chưa thiết lập được phạm vi pháp lý chính thức cho QTRR hoạt động. Hiện NHNN vẫn đang nghiên cứu để hoàn thiện hệ thống QTRR tại các nhà băng để hợp với lịch trình vận dụng Basel II và lộ trình cơ cấu lại hệ thống tổ chức tín dụng (TCTD) theo đề án đã được chính phủ phê chuẩn tại Quyết định số 254/QĐ-TTg. Mới đây, tháng 3/2014, NHNN đã ban hành Dự thảo Thông tư Quy định về hệ thống QLRR trong hoạt động nhà băng để xin ý kiến cá nhân, tổ chức và dự định có hiệu lực từ ngày 01/6/2014. Chậm nhất đến ngày 1/6/2016, các tổ chức tín dụng (TCTD), chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải hoàn thiện hệ thống QLRR theo quy định tại thông tư này.

Theo Dự thảo thông tư, các TCTD cần ít cho NHNN theo định kỳ hàng quý về tình hình rủi ro, QLRR và đột xuất trong trường hợp các rủi ro này có nguy cơ gây ra tổn thất lớn hơn 5% vốn tự có TCTD, chi nhánh nhà băng trong nước trong thời gian 5 ngày làm việc kể từ khi tổn thất xảy ra. Dự thảo thông tư quy định TCTD, chi nhánh nhà băng nước ngoài phải thiết lập và vận hành hệ thống QLRR theo 4 cấu phần: (i) Sự giám sát của HĐQT, HĐTV, ngân hàng mẹ, Ban điều hành; (ii) Các văn bản về chiến lược, chính sách, quy trình QLRR; (iii) Hệ thống thông báo quản lý (MIS) và (iv) Kiểm toán nội bộ. Hội đồng quản trị, ngân hàng mẹ sẽ chịu nghĩa vụ rút cuộc và cao nhất về hệ thống QLRR của TCTD, chi nhánh.

Trong bối cảnh hiện tại, các NHTM hoạt động kinh doanh theo cơ chế thị trường có sự quản lý chặt của NHNN, bởi vậy cần coi xét kỹ lưỡng để quyết định chọn lọc khung QTRR hoạt động sao cho đáp ứng được những yêu cầu căn bản theo chuẩn mực quốc tế như: (i) Chiến lược của nhà băng và phương pháp QTRR hoạt động phải ăn khớp với nhau; (ii) Xác định được các phương pháp quản lý và đo lường rủi ro hoạt động; (iii) Đưa ra các dụng cụ chuẩn về xác định, đo lường, kiểm tra, giám sát, thưa rủi ro hoạt động trong toàn hệ thống…

Đích triển khai mô hình QTRR hoạt động ở mỗi ngân hàng có thể khác nhau, từ việc đảm bảo tuân thủ các đề nghị của luật pháp, phù hợp với các thông lệ quốc tế đến tạo ra hiệu quả hoạt động và lợi thế cạnh tranh. Tuy nhiên, để bảo đảm hoạt động QTRR hoạt động thành công là cam kết của ban lãnh đạo và sự hợp nhất về mô hình QTRR hoạt động. Ngân hàng nên thực hiện việc minh bạch khung QTRR hoạt động để các bên liên hệ có thể hiểu được các phương pháp QTRR hoạt động của nhà băng.

Mặt khác, công việc có vai trò quan trọng trong quy trình QTRR hoạt động là thời đoạn thu thập các dữ liệu rủi ro trong quá cố và hiện tại của NHTM từ nhiều nguồn khác nhau. Xây dựng cơ sở dữ liệu tổn thất là nguyên tố hàng đầu để thiết lập và triển khai hệ thống QTRR hoạt động hiệu quả và tin tức. Để làm được điều này, các NHTM Việt Nam cần sớm triển khai xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu phục vụ QLRR, thậm chí là phục dựng lại dữ liệu quá cố để đẩy nhanh tiến trình QTRR hoạt động theo chuẩn quốc tế. Các dữ liệu tổn thất các NHTM có thể khai hoang được từ các nguồn sau:

Một là, từ các hoạt động nghiệp vụ, các phòng/ban/đơn vị trong hệ thống (ở đây các trưởng phòng/ ban/đơn vị có nghĩa vụ khai báo và lưu trữ các rủi ro nảy trong quá trình tác nghiệp);

Hai là, các bộ phận giám sát, kiểm soát có trách nhiệm khai báo và lưu trữ các rủi ro nảy sinh trong quá trình rà soát, kiểm soát;

Ba là,chiết xuất lỗi, sự cố và tổn thất từ các hệ thống khác trong ngân hàng như: core banking, các bộ phận như internet banking, thẻ, treasury...

Giải pháp nâng cao quản trị rủi ro hoạt động

 tham khảo ở đây 

Để xây dựng được cơ sở dữ liệu tổn thất đầy đủ và tin tưởng.#, Thời kì tới các NHTM cần tụ tập vào những giải pháp sau:

Thứ nhất,cần phải có sự tham dự của quờ quạng các phòng ban trong các hoạt động thu thập dữ liệu tổn thất. Thêm vào đó, cần xây dựng và chính thức hóa quy trình thu thập dữ liệu tổn thất. Quy trình này phải linh hoạt để có thể cập nhật các nguồn thông tin cũng như phản ảnh đúng các khả năng rủi ro hoạt động khi môi trường kinh dinh đổi thay. Quy trình này cần được thông tin rộng rãi và thống nhất trong toàn ngân hàng.

Thứ hai,trên cơ sở thu thập các dữ liệu rủi ro, tổn thất nội bộ và bên ngoài, NHTM đo lường rủi ro hoạt động theo 2 phương pháp: Đo lường định tính và định lượng. Đối với đo lường định lượng thì việc lưu trữ dữ liệu là quan trọng nhất. NHTM phải lưu trữ chí ít là 3 năm dữ liệu rủi ro hoạt động và chất lượng dữ liệu phải có kiểm soát chặt để đảm bảo tính đúng đắn trong việc tính tình.

Thứ ba,nhà băng cần xác định các rủi ro chính trong các hoạt động theo từng phòng/ban nghiệp vụ, nhằm mục đích giám sát hàng ngày các chuẩn mực và điều kiện về tổ chức ở cấp độ từ dưới lên dựa trên hoạt động kinh doanh, thẳng rà lại các quy trình và rủi ro đã được xác định. Từ đó, phân tách sát hơn những loại rủi ro hoạt động liên quan đến mảng kinh doanh. Thiết lập một hệ thống cảnh báo sớm có hiệu lực, coi đó như một biện pháp phòng ngừa để giảm thiểu rủi ro hoạt động. Để xác định các rủi ro chính, ngân hàng dựa trên những chỉ số rủi ro chính (KRI) được xây dựng cho từng lĩnh vực kinh doanh.

Thứ tư,nhà băng còn phải phân loại chừng độ rủi ro hoạt động theo cấp độ quan yếu từ thấp đến cao trong hoạt động của mình và xác định các cấp độ báo cáo cho hiệp. Đồng thời, đưa ra những phương pháp hoặc cách thức để đánh giá và kiểm soát rủi ro ở nhiều mức độ khác nhau (cấp lãnh đạo, quản lý hay cán bộ…). Việc đánh giá và kiểm soát rủi ro phải được diễn ra thẳng tuột và ứng dụng cho toàn bộ các phòng/ban, nghiệp vụ kinh doanh trong hệ thống.

Thứ năm,một công cụ thường được sử dụng trong QTRR hoạt động là phân tích kịch bản. Ích lợi của phân tách kịch bản là tương trợ ban lãnh đạo rút ra những thông tin cấp thiết cho hoạt động điều hành, không ngừng cải thiện quy trình QLRR hoạt động, thực hiện giám sát rủi ro chủ động để bổ sung cho việc phân tích dữ liệu tổn thất sau này.

Để xác định kịch bản, ngân hàng cần lưu ý các điều kiện tiên quyết: Những gì xảy ra gần đây? Những gì có thể xảy ra trong điều kiện ngày nay, những gì có thể xảy ra sắp tới? Xác suất ước tính là bao lăm? Tổn thất dễ xảy ra nhất là gì? Những rủi ro nào cần tính đến trong trường hợp xấu nhất? Các biện pháp để giảm các rủi ro này?... Với các kịch bản chọn lọc, nhà băng ước lượng rủi ro hoạt động trên cơ sở bít tất hoạt động kinh doanh của sờ soạng phận, đồng thời thẩm tra mức độ mà các tổn thất lớn có thể xảy ra. Dựa vào đó, các NHTM sẽ tính toán hay điều chỉnh giá trị rủi ro và phân bổ vốn dự phòng rủi ro hoạt động theo phương pháp thích hợp được hướng dẫn trong Basel II.

Thứ sáu,nhà băng cần sớm xây dựng hệ thống báo cáo nhằm đáp ứng các yêu cầu của NHNN cũng như đáp ứng nhu cầu quản trị nội bộ. Theo Basel, ban lãnh đạo nhà băng nên khai triển một quy trình để ngay giám sát hồ sơ rủi ro hoạt động và các nguy cơ hiểm yếu có thể gây ra tổn thất. Cơ chế ít ăn nhập cần phải có ở cấp độ Hội đồng quản trị, ban điều hành, đơn vị kinh doanh nhằm tạo điều kiện chủ động QTRR hoạt động.

Thứ bảy,cần chú trọng công tác quản trị nội bộ, giúp nhà băng chủ động nắm bắt những biến động trên thị trường, trông coi được dấu hiệu rủi ro và cảnh báo sớm rủi ro. Để quản trị nội bộ tốt, ban lãnh đạo cần nâng cao nhận thức về tầm quan trọng trong QTRR hoạt động của ngân hàng, thẳng thớm cập nhật quá trình đánh giá rủi ro hoạt động, đặc biệt những rủi ro trong phát triển sản phẩm mới hoặc triển khai một hoạt động kinh dinh mới.

Thứ tám,các NHTM cần nâng cao hiệu quả hệ thống kiểm toán nội bộ. Định kỳ, kiểm toán nội bộ đánh giá hoạt động kinh doanh, tụ tập vào các rủi ro chiến lược và rủi ro hoạt động, từ đó đưa ra các khuyến nghị để cấp quản lý rà soát, xác định và giải quyết. Yêu cầu bộ phận kiểm toán nội bộ phải có hiểu biết toàn diện về tuốt luốt hoạt động ngân hàng, các vấn đề pháp lý và quy định.

Bài đăng trên tùng san Tài chính số 6 - 2014


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét