Top Google Việt Nam : Tôn Hoa Sen, Tôn Việt Nhật , Tôn Việt Hàn, Tôn Vitek, Tôn Sóng Ngói, Khung Nhà Xưởng Cũ, Diệt Mối, Diệt Chuột, Diệt Gián, Diệt Muỗi, Diệt Kiến, Làm Biển Quảng Cáo, Mua Bán Ô Tô Cũ, Phong Thủy, Gitizen.info, Blog Thủ Thuật SEO, Quà Tặng Lưu Niệm

Chủ Nhật, 20 tháng 4, 2014

Ứng dụng CNTT trong y học quân sự

Đa tác dụng CNTT ngày một có tầm quan trọng trong mọi lĩnh vực hoạt động kinh tế-xã hội, là dụng cụ đắc lực và có hiệu quả cao trong công tác quản lý, điều hành và tổ chức sinh sản, kinh dinh... Trong hoạt động y tế, CNTT là một tác nhân góp phần nâng cao chất lượng công tác khám, chữa bệnh (KCB) toàn diện, giúp cho quá trình chăm nom sức khỏe nhân dân càng ngày càng tốt hơn. Tàu bệnh viện HQ-561 được trang bị hệ thống công nghệ thông báo truyền hình ảnh, tương trợ chẩn đoán điều trị từ xa thuộc Dự án Telemedicine của Bộ Quốc phòng. Nguồn: QĐND Online. Bệnh viện Quân dân y miền Đông (Cục Hậu cần, Quân khu 7) xếp hạng 2, nhưng được đầu tư khá căn bản về ứng dụng CNTT. Hiện bệnh viện này quản lý bệnh nhân bằng thẻ từ, giúp các bác sĩ theo dõi tình trạng sức khỏe người bệnh được liên tục, trong thời gian dài. Thượng tá, bác sĩ Nguyễn Xuân Hùng, Phó giám đốc Bệnh viện Quân dân y miền Đông khẳng định: Khi vận dụng CNTT vào trong công tác KCB sẽ thu được 3 tác dụng đẵn: Về mặt xã hội, giúp phục vụ người bệnh tốt hơn vì hạn chế bị động, phiền nhiễu, giảm thời kì chờ của bệnh nhân; về mặt khoa học kỹ thuật, giúp nâng cao trình độ của hàng ngũ cán bộ, nhân viên bệnh viện, có điều kiện áp dụng sâu hơn tiến bộ khoa học y học, giám sát hoạt động của bệnh viện hiệu quả; về mặt kinh tế, giúp tiện tặn nhân lực, vật tư, tránh thất thoát và dễ dàng san sớt thông báo tới nhiều đối tượng cùng một lúc. Bệnh viện Bỏng nhà nước Lê Hữu Trác cũng là một trong những bệnh viện được đầu tư ứng dụng CNTT cơ bản từ năm 2006. Hiện nay, hệ thống phần mềm quản lý được kết nối toàn viện, với quy trình kép kín từ khi bệnh nhân vào khám cho đến khi ra viện. Khi nói về tác dụng của CNTT với công tác quản lý và KCB, Đại tá, PGS, TS Nguyễn Ngọc Tuấn, Phó giám đốc Bệnh viện Bỏng Quốc gia Lê Hữu Trác nhấn mạnh: vận dụng CNTT sâu giúp người quản lý giám sát hoạt động các nguồn lực của bệnh viện hiệu quả hơn; giảm thời gian xử lý báo cáo với độ chính xác cao. Thông tin ngày một được minh bạch, loại bỏ được các sai sót do cố ý hoặc vô tình. Hạn chế các hiện tượng tiêu cực như kê đơn thuốc ăn hoa hồng, lạm dụng xét nghiệm… Dễ dàng gieo, trích xuất thông báo khi cần. Tạo cho người bệnh tâm lý yên tâm, tin tức, khi đến KCB. Tác dụng, hiệu quả của việc ứng dụng CNTT trong KCB tại các bệnh viện quân đội là rất lớn. Nhận rõ tác dụng ấy, từ năm 2010, Bộ Quốc phòng đã có Dự án Chuẩn hóa quy trình KCB, xây dựng trung tâm phân tích dữ liệu y tế quân đội và hệ thống y khoa từ xa (telemedicine) giữa các bệnh viện quân đội. Dự án sẽ trở nên một giải pháp hiệu quả giúp các bệnh viện trong toàn quân có điều kiện chia sẻ thông báo và với các tổ chức y tế khu vực, thế giới để huấn luyện, hội chẩn tại chỗ, tương trợ cấp cứu nguy cấp các nạn nhân bị tai nạn bởi thiên tai, hỏa hoạn, sập đổ công trình và chăm sóc sức khỏe bộ đội trong điều kiện hoạt động dã ngoại tại vùng biên thuỳ, hải đảo. Cần có quy hoạch tổng thể ứng dụng CNTT trong ngành y tế đã được các nước trên thế giới triển khai từ lâu. Một nghiên cứu được ban bố trên J Am Med Informatics Assoc khẳng định, vận dụng CNTT giảm sự cố y khoa từ 0,29% xuống còn 0,11%. Hiện nhiều Quốc gia trên thế giới, các bệnh viện trực thuộc Bộ Y tế và tuyến tỉnh, tuyến huyện đã ứng dụng sâu CNTT vào quản lý và KCB, góp phần nâng cao hiệu quả KCB phục vụ dân chúng, giảm đáng kể ùn tắc, quản lý tốt dữ liệu, vật tư, dụng cụ, tăng chất lượng khám, điều trị. Tuy nhiên, hiện việc vận dụng CNTT tại các bệnh viện quân đội còn mang tính nhỏ lẻ, thiếu hợp nhất. Thiếu tướng, GS Vũ Quốc Bình, Cục trưởng Cục Quân y phân tích: Yêu cầu nâng cao chất lượng KCB, đề nghị quản lý và văn bản quy định KCB theo bảo hiểm y tế… càng ngày càng đòi hỏi cao. Nên, việc áp dụng sâu CNTT trong lĩnh vực y tế quân đội là vô cùng cần thiết, nhất là trong một số nội dung: Quản lý thu, tăng viện phí; quản lý cận lâm sàng, thuốc, trang bị y tế; quản lý hồ sơ, bệnh án; chẩn đoán, điều trị bằng kỹ thuật nội soi, siêu âm mầu 3D, 4D, XQ kỹ thuật số, MRI, CT, PET-CT, hệ thống labo xét nghiệm tự động, can thiệp mạch, máy trị xạ… Kiểm tra kết nối trực tuyến giữa tàu bệnh viện HQ-561 và Bệnh viện 175 trong diễn tập KOMODO tại Indonesia. Nguồn: QĐND Online. Theo Đại tá Lê Xuân Thọ, Trưởng phòng Điều trị (Cục Quân y), làng nhàng mỗi năm, các bệnh viện toàn quân khám hơn 3,5 triệu lượt người; thu dung gần 400.000 bệnh nhân; tỷ lệ sử dụng giường bây giờ đạt 173,5%; cấp cứu hơn 130.000 lượt bệnh nhân; xét nghiệm khoảng 3,5 triệu lượt người với khoảng 23 triệu xét nghiêm các loại. Nhiều bệnh viện lớn của quân đội đã quá tải. Đại tá Lê Xuân Thọ phân tách, do đặc thù hoạt động quân sự, việc triển khai hệ thống CNTT để hỗ trợ chẩn đoán y khoa từ xa đối với các đơn vị làm nhiệm vụ ở vùng sâu vùng xa, vùng biên thuỳ, hải đảo có ý nghĩa khôn cùng quan yếu, giúp cho việc cấp cứu những trường hợp không có điều kiện chuyển về tuyến sau được thuận tiện, đồng thời phục vụ công tác huấn luyện, đào tạo hàng ngũ bác sĩ được tốt hơn. Tìm hiểu chúng tôi được biết, từ hơn mười năm trước, Tổng cục Hậu cần đã triển khai Dự án “Chuẩn hóa quy trình KCB, xây dựng trung tâm tích hợp dữ liệu y tế quân đội và hệ thống y khoa từ xa giữa các bệnh viện quân đội” khoảng 50 tỷ đồng, nhưng cũng chỉ giới hạn ở một số bệnh viện như: 108, 175, 103, 105 (Tổng cục Hậu cần), 87 (Hải quân)… Số các bệnh viện còn lại cũng được đầu tư, nhưng mức độ rất hạn chế. Theo đánh giá của cơ quan chức năng Cục Quân y, giờ có một thực trạng khó giải quyết là, việc vận dụng CNTT từ Cục Quân y đến các bệnh viện, cơ sở KCB trong quân đội còn thiếu hợp nhất, hệ thống phần cứng không đồng bộ, nhiều bệnh viện được đầu tư trước, đến nay hệ thống máy chủ, máy trạm đã cũ, lỗi thời và không chung một đường truyền; hệ thống phần mềm quản lý cũng có sự khác biệt lớn bởi do các bệnh viện sở hữu nguồn từ nhiều nhà cung cấp khác nhau. Đặc biệt, tổ chức nhân công CNTT ở các bệnh viện cũng bố trí khác nhau, chưa có sự hợp nhất, tụ hợp. Điều này gây khó khăn cho công tác quy hoạch, quản lý, đào tạo, bổ nhiệm và sử dụng cán bộ, nhân công lâu dài. Hiệu quả từ việc áp dụng sâu CNTT vào trong hoạt động y khoa quân sự, trong KCB, coi ngó sức khỏe bộ đội và nhân dân đã rõ. Làm thế nào để đầu tư, ứng dụng CNTT trong các bệnh viện quân đội được thống nhất, hiệu quả lâu dài là bài toán khó, trong đó phải giải quyết triệt để những vấn đề lớn như quy hoạch cơ sở hạ tầng kỹ thuật, nguồn vốn đầu tư phương tiện, đào tạo nhân công, hợp nhất phần mềm quản lý… Trong đó, việc tính nết, kế thừa cơ sở hạ tầng CNTT các bệnh viện đã ứng dụng, khai thác hiện giờ là khôn cùng cấp thiết. Làm tốt việc này sẽ góp phần tiện tặn lượng lớn kinh phí cho quốc gia và quân đội. MẠNH THẮNG

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét